Đánh giá kinh tế y tế là gì? Các công bố khoa học về Đánh giá kinh tế y tế

Đánh giá kinh tế y tế (Economic evaluation in healthcare) là quá trình đo lường và đánh giá tác động kinh tế của các chương trình, dịch vụ và công nghệ trong lĩ...

Đánh giá kinh tế y tế (Economic evaluation in healthcare) là quá trình đo lường và đánh giá tác động kinh tế của các chương trình, dịch vụ và công nghệ trong lĩnh vực y tế. Nó giúp đánh giá hiệu quả và tính bền vững của các quyết định đầu tư và sử dụng tài nguyên trong lĩnh vực y tế, nhằm tối ưu hóa lợi ích cho cả cá nhân và xã hội. Đánh giá kinh tế y tế thường sử dụng các phương pháp như đánh giá chi phí-hiệu quả (cost-effectiveness analysis), đánh giá chi phí-tiện ích (cost-utility analysis) hoặc đánh giá chi phí-trung gian (cost-intermediate analysis) để đo lường chi phí, hiệu quả và giá trị kinh tế của các biện pháp y tế.
Đánh giá kinh tế y tế là một phương pháp nghiên cứu và phân tích các quyết định về tài nguyên trong lĩnh vực y tế từ góc độ kinh tế. Nó cung cấp một cách tiếp cận hợp lý để đo lường và so sánh giữa các phương pháp và chiến lược khác nhau trong việc sử dụng tài nguyên y tế.

Các phương pháp đánh giá kinh tế y tế phổ biến nhất bao gồm:

1. Đánh giá chi phí-hiệu quả (cost-effectiveness analysis): Đây là phương pháp đo lường và so sánh chi phí của một phương pháp hoặc công nghệ y tế với hiệu quả của nó. Kết quả của phương pháp này thường được biểu thị dưới dạng "chi phí cho mỗi đơn vị hiệu quả", ví dụ như chi phí cho mỗi năm sống được kéo dài (cost per life-year gained) hoặc chi phí cho mỗi chất lượng năm sống được cải thiện (cost per quality-adjusted life year - QALY).

2. Đánh giá chi phí - tiện ích (cost-utility analysis): Phương pháp này đo lường giá trị kinh tế của một phương pháp y tế bằng cách so sánh chi phí với lợi ích tiện ích của nó. Lợi ích tiện ích thường được biểu thị dưới dạng điểm số hoặc chỉ số, như Disability-Adjusted Life Years (DALYs) hoặc Quality-Adjusted Life Years (QALYs). Kết quả của phương pháp này là "chi phí cho mỗi điểm số tiện ích" hoặc "chi phí cho mỗi QALY".

3. Đánh giá chi phí-trung gian (cost-intermediate analysis): Phương pháp này đo lường và so sánh chi phí trung gian của một phương pháp y tế, chẳng hạn như tiến độ bệnh, chỉ số sinh tồn hay giảm đau. Phương pháp này thường sử dụng khi không có đủ thông tin để thực hiện tiện ích hay hiệu quả kinh tế.

Đánh giá kinh tế y tế có thể cung cấp cho người ra quyết định trong lĩnh vực y tế các dữ liệu quan trọng về hiệu quả và giá trị của các quyết định, từ đó giúp họ đưa ra các quyết định cân nhắc và tối ưu hóa sử dụng tài nguyên y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đánh giá kinh tế y tế":

Đánh giá kinh tế của phòng ngừa béo phì ở trẻ nhỏ: Phương pháp, Hạn chế và Khuyến nghị Dịch bởi AI
International Journal of Environmental Research and Public Health - Tập 13 Số 9 - Trang 911

Dù có những tiến bộ phương pháp trong lĩnh vực đánh giá kinh tế của các can thiệp, nhưng các đánh giá kinh tế về chương trình phòng ngừa béo phì trong thời thơ ấu hiếm khi được tiến hành. Mục tiêu của nghiên cứu này là khám phá các phương pháp hiện có và ứng dụng của các đánh giá kinh tế, xem xét những hạn chế của chúng và đưa ra khuyến nghị cho các đánh giá chi phí-hiệu quả trong tương lai. Một tìm kiếm tài liệu có hệ thống đã được thực hiện bằng cách sử dụng PubMed, Thư viện Cochrane, Cơ sở dữ liệu Đánh giá Kinh tế của Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh và EconLit. Các nghiên cứu đủ tiêu chuẩn bao gồm các phân tích chi phí-hiệu quả dựa trên thử nghiệm hoặc mô phỏng của các chương trình phòng ngừa béo phì nhắm đến trẻ mẫu giáo và/hoặc cha mẹ của chúng. Chất lượng của các nghiên cứu được lựa chọn đã được đánh giá. Trong số sáu nghiên cứu được đưa vào, năm nghiên cứu là nghiên cứu can thiệp và một nghiên cứu dựa trên phương pháp mô phỏng thực hiện trên dữ liệu thứ cấp. Chúng tôi xác định ba hạn chế chính về khái niệm và phương pháp của các đánh giá kinh tế này: Tiếp cận khái niệm không đủ xem xét sự phức tạp của béo phì ở trẻ em, việc đo lường hiệu ứng của các can thiệp không đầy đủ và việc thiếu các công cụ hợp lệ để đo lường chất lượng cuộc sống liên quan đến trẻ em và chi phí. Dù cần có các đánh giá kinh tế về chương trình phòng ngừa béo phì trong thời thơ ấu, chỉ có một số ít nghiên cứu với chất lượng khác nhau đã được thực hiện. Hơn nữa, do các điểm yếu về phương pháp và khái niệm, những nghiên cứu này chỉ cung cấp thông tin hạn chế cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà cung cấp can thiệp. Chúng tôi trình bày lý do cho những hạn chế của các nghiên cứu này và đưa ra hướng dẫn cho việc thiết kế các đánh giá kinh tế tốt hơn về phòng ngừa béo phì sớm.

#đánh giá kinh tế #béo phì #phòng ngừa #trẻ nhỏ #chi phí-hiệu quả
Suy Nghĩ về Nhiệm Vụ Y Tế Maternal-Child Tích Hợp của Sinh Viên Y Khoa Dịch bởi AI
Maternal and Child Health Journal - Tập 24 - Trang 679-686 - 2020
Các trải nghiệm lâm sàng đưa ra cho người học góc nhìn của bệnh nhân, điều này có thể ảnh hưởng lâu dài đến danh tính nghề nghiệp của sinh viên. Tuy nhiên, trong các môi trường lâm sàng bận rộn, nơi những cơ hội để phản ánh có thể bị hạn chế, việc lắng nghe câu chuyện của bệnh nhân thường bị bỏ qua. Chúng tôi đã sử dụng một nhiệm vụ phản ánh để bổ sung cho chương trình giảng dạy tích hợp mới về sức khỏe mẹ và trẻ. Các sinh viên y khoa đã hoàn thành một nhiệm vụ ngắn gọn từ phiên của họ tại đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh (NICU), bao gồm viết phản ánh, từ mùa thu năm 2016 đến mùa hè năm 2017. Rubric Độ Sâu của Phản Ánh được sử dụng để chấm điểm các phản ánh trên thang điểm: “Kiến thức và Hiểu biết” (Cấp I), “Phân tích” (Cấp II), và “Tổng hợp và Đánh giá” (Cấp III). Một phương pháp so sánh liên tục dựa trên lý thuyết phát sinh đã rút ra các chủ đề trước và sau khi sinh từ các bài viết phản ánh của sinh viên. Tất cả sinh viên đã hoàn thành các bản tường thuật (n = 166); 70% (n = 116) đạt được Độ Sâu Phản Ánh từ Cấp II trở lên. Sáu chủ đề chính đã nổi lên: (1) Trải nghiệm Thụ Thai, Mang Thai và Sinh Nở; (2) Cấu trúc Hỗ trợ Tích cực; (3) Rào cản và Yếu tố Gây Stress trong Chăm sóc; (4) Kế hoạch Tương lai; (5) Biến chứng Bất ngờ; và (6) Sự nghiệp và Xem xét Chuyên môn của Sinh viên. Những phản ánh từ một trải nghiệm sức khỏe mẹ và trẻ tích hợp mới và ngắn gọn đã cho thấy mức độ cao trên thang Độ Sâu Phản Ánh. Trải nghiệm này đã mở ra cho sinh viên các chủ đề cốt lõi liên quan đến quá trình mang thai và trải nghiệm sau sinh của một gia đình. Việc hình thành danh tính nghề nghiệp cũng nổi lên như một chủ đề. Các nhiệm vụ viết phản ánh trong một NICU bận rộn có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc khám phá kiến thức của sinh viên y khoa về trải nghiệm của bệnh nhân trong sức khỏe mẹ và trẻ.
#sức khỏe mẹ và trẻ #phản ánh lâm sàng #danh tính nghề nghiệp #giáo dục y học #kinh nghiệm bệnh nhân
XÂY DỰNG VÀ HIỆU CHỈNH CẤU TRÚC MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ CHI PHÍ – HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH CAN THIỆP SỨC KHỎE TÂM THẦN VỊ THÀNH NIÊN TRONG TRƯỜNG HỌC TẠI VIỆT NAM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xây dựng và hiệu chỉnh cấu trúc mô hình Markov để đánh giá chi phí – hiệu quả chương trình can thiệp sức khỏe tâm thần vị thành niên trong trường học tại Việt Nam. Phương pháp: Sử dụng tổng quan hệ thống, tổng quan tài liệu kết hợp với phỏng vấn sâuchuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần, kinh tế y tế, y tế và giáo dục (10 chuyên gia) và thảo luận nhóm (01 cuộc thảo luận nhóm). Kết quả: Dựa trên tổng quan hệ thống các mô hình tương tự trên thế giới và tổng quan các tài liệu khác, toàn bộ các sự kiện/trạng thái sức khỏe trong mô hình Markov có liên quan được liệt kê. Sau đó, các trạng thái được đánh giá để đưa vào/loại ra dựa trên các tiêu chí đã được xác định trước. Các trạng thái được đưa vào được sắp xếp thành một chuỗi các sự kiện và sơ đồ hóa (mô hình Markov). Kết quả phỏng vấn sâu đã khẳng định về tính đại diện và đầy đủ của các trạng thái được đưa vào; sự rõ ràng về khái niệm của trạng thái; tính phù hợp về lâm sàng của chuỗi các sự kiện; và khả năng phản ánh kết quả đầu ra cuối cùng (mắc bệnh và tử vong) của chuỗi sự kiện. Kết luận: Cấu trúc của mô hình đánh giá chi phí – hiệu quả của chương trình can thiệp sức khỏe tâm thần cho vị thành niên trong trường học tại Việt Nam (RAP-V) đã được đánh giá là phù hợp để triển khai.
#đánh giá kinh tế y tế #mô hình hóa #mô hình markov #can thiệp dự phòng trầm cảm #can thiệp sức khỏe tâm thần
Thử nghiệm ngẫu nhiên tại Úc để đánh giá vai trò của dexamethasone tiêm bắp cho mẹ so với betamethasone trước khi sinh non nhằm tăng khả năng sống sót không bị khuyết tật thần kinh cảm giác ở trẻ em (A*STEROID): hướng dẫn nghiên cứu Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 13 - Trang 1-7 - 2013
Cả dexamethasone và betamethasone, được sử dụng cho phụ nữ có nguy cơ sinh non, đều cải thiện rõ rệt sức khỏe trẻ sơ sinh trong ngắn hạn, tăng cơ hội cho trẻ được xuất viện về nhà sống sót, và giảm khuyết tật thần kinh cảm giác ở trẻ em, vẫn giữ được tính an toàn trong suốt tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, chưa rõ corticosteroid nào có lợi hơn cho mẹ và trẻ. Nghiên cứu này nhằm xác định xem việc cho dexamethasone cho phụ nữ có nguy cơ sinh non dưới 34 tuần thai có tăng cơ hội cho trẻ sống sót không bị khuyết tật thần kinh cảm giác ở tuổi 2 so với betamethasone hay không. Thiết kế của nghiên cứu là thử nghiệm ngẫu nhiên, đa trung tâm, có kiểm soát giả dược. Tiêu chí lựa chọn: Phụ nữ có nguy cơ sinh non dưới 34 tuần thai với thai đơn hoặc thai đôi và không có chống chỉ định trong việc sử dụng corticosteroid trước sinh và đã đồng ý tham gia nghiên cứu. Khởi đầu thử nghiệm và phân ngẫu nhiên: Các phụ nữ đủ tiêu chuẩn sẽ được phân ngẫu nhiên qua điện thoại vào nhóm sử dụng dexamethasone hoặc nhóm sử dụng betamethasone, nhận số hiệu nghiên cứu và gói điều trị tương ứng. Nhóm nghiên cứu: Phụ nữ trong nhóm dexamethasone sẽ được tiêm hai liều 12 mg dexamethasone (dexamethasone sodium phosphate), và phụ nữ trong nhóm betamethasone sẽ nhận hai liều 11.4 mg betamethasone (Celestone Chronodose). Cả hai nhóm sẽ được điều trị bằng cách tiêm bắp cách nhau 24 giờ. Kết quả chính của nghiên cứu là số ca tử vong hoặc bất kỳ khuyết tật thần kinh cảm giác nào được đo ở trẻ em tại tuổi 2. Kích thước mẫu: Một kích thước mẫu là 1449 trẻ em được yêu cầu để phát hiện sự giảm số ca tử vong hoặc khuyết tật thần kinh cảm giác từ 27,0% xuống 20,1% với dexamethasone so với betamethasone, hoặc tăng từ 27,0% lên 34,5% (alpha hai phía 0,05, sức mạnh 80%, tổn thất theo dõi 5%, hiệu ứng thiết kế 1,2). Nghiên cứu này sẽ cung cấp bằng chứng có giá trị cao liên quan trực tiếp đến thực hành lâm sàng. Nếu một loại thuốc rõ ràng mang lại sự giảm thiểu đáng kể số ca tử vong và số trẻ bị khuyết tật, thì nó nên được sử dụng nhất quán cho phụ nữ có nguy cơ sinh non và điều này sẽ có ý nghĩa lớn đối với phụ nữ có nguy cơ sinh non, trẻ em của họ, các dịch vụ sức khỏe và cộng đồng.
Đánh giá kinh tế dược phẩm về điều trị immunoglobulin ở bệnh nhân thiếu hụt kháng thể từ góc độ của bảo hiểm y tế hợp pháp tại Đức Dịch bởi AI
The European Journal of Health Economics - Tập 6 - Trang 24-29 - 2005
Các thiếu hụt kháng thể nguyên phát là hình thức phổ biến nhất của các immunodeficiency nguyên phát. Liệu pháp thay thế bằng immunoglobulin đa trị đã được thiết lập là liệu pháp chuẩn cho các thiếu hụt kháng thể trong nhiều thập kỷ qua. Đến nay, chủ yếu các immunoglobulin tiêm tĩnh mạch (IVIG) đã được sử dụng tại Đức, và đa số bệnh nhân nhận điều trị tại các phòng khám ngoại trú bệnh viện. Trong những năm gần đây, việc tiêm dưới da immunoglobulin (SCIG) đã được phát triển, phương pháp này được sử dụng như là tiêm tự tại nhà. Các nghiên cứu chỉ ra không có sự khác biệt đáng kể trong liệu pháp thay thế immunoglobulin giữa SCIG và IVIG liên quan đến kết quả điều trị. Chúng tôi đã tiến hành một phân tích tối ưu hóa chi phí để so sánh hai lựa chọn điều trị tại Đức. Dưới những giả định cơ bản, việc điều trị bằng SCIG tiết kiệm chi phí từ góc độ của bảo hiểm y tế pháp định Đức. Các yếu tố chính tác động đến chi phí là IVIG và SCIG; chi phí gia tăng của SCIG so với IVIG nhạy cảm nhất với sự thay đổi giá immunoglobulin và sự thay đổi trọng lượng cơ thể của bệnh nhân.
#thiếu hụt kháng thể #điều trị immunoglobulin #phân tích chi phí #bảo hiểm y tế #sử dụng immunoglobulin #chăm sóc y tế tại nhà
Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 và thách thức của việc đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai
Đánh giá năng lực tổ chức là công việc được mọi tổ chức thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Đánh giá năng lực tổ chức (Organizational Capaciy AssessmentOCA) là phương pháp được thiết lập một thập kỷ trước để cung cấp một cách nhìn thống nhất về “tình trạng sức khỏe” của một tổ chức trước khi nhà tài trợ, đầu tư, đối tác, quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp,…, đưa ra quyết định. Bộ chỉ số BCI (Business Capacity Index) được phát triển dựa trên OCA và Bộ chỉ số CIS (Credibility Index for SME, Nhật Bản) trong khuôn khổ Dự án LinkSME của Văn phòng Chính phù và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (USAID tài trợ) và được áp dụng với mục đích thực thi hiệu quả Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 và giúp DNNVV Việt Nam hội nhập thành công.
#đánh giá năng lực #năng lực cạnh tranh #năng lực doanh nghiệp #chỉ số kinh doanh #OCA #BCI
Đánh giá Kinh tế Y tế về Yếu Tố VII Hoạt Hóa Phục Hợp (Novoseven®) cho Điều Trị Các Đợt Chảy Máu ở Bệnh Nhân Hemophilia Có Inhibitor. Dịch bởi AI
Blood - Tập 108 - Trang 5539 - 2006
Tóm tắt

MỤC TIÊU: Hemophilia nặng có inhibitor là một bệnh hiếm gặp với những hậu quả lâm sàng, nhân văn và kinh tế đáng kể. Trong vài năm qua, đã xuất hiện một số phân tích kinh tế chính thức khảo sát chi phí điều trị các đợt chảy máu bằng yếu tố VII hoạt hóa phục hợp (rFVIIa) so với các tác nhân có nguồn gốc từ huyết tương. Do đó, mục tiêu là xem xét các phân tích kinh tế y tế gần đây về rFVIIa trong việc quản lý bệnh nhân hemophilia và có inhibitor.

NGUỒN DỮ LIỆU: Tài liệu y tế bằng tiếng Anh đã được công bố về kinh tế học của rFVIIa đã được tìm kiếm từ tháng 1 năm 1996 đến tháng 7 năm 2006 bằng cách sử dụng: cơ sở dữ liệu MEDLINE/PubMed, tính năng bài viết liên quan trên PubMed, kiến thức của công ty về tài liệu y tế đã công bố về rFVIIa mà không được lập chỉ mục bởi MEDLINE/PubMed, và một đánh giá kỹ lưỡng các tài liệu tham khảo trong những bài báo đã thu thập.

CHỌN LỌC NGHIÊN CỨU VÀ TRỪU TƯỢNG DỮ LIỆU: Các tóm tắt được chọn cho việc thu thập/đánh giá bài báo đầy đủ là những tóm tắt đã đề cập cụ thể (hoặc ngầm ý rằng bài báo đầy đủ sẽ đề cập đến) tác động chi phí, chi phí điều trị, hoặc chi phí-hiệu quả đối với rFVIIa ở bệnh nhân hemophilia và có inhibitor. Trong số 70 tóm tắt được xem xét, 30 bài báo đã được chọn cho việc thu thập, và trong số đó, mười ba phân tích kinh tế (6 gánh nặng bệnh tật và 7 nghiên cứu so sánh) đã đáp ứng tiêu chí bao gồm cho việc trừu tượng dữ liệu và tổng hợp. Mười bảy bài báo đã bị loại trừ vì các lý do sau: báo cáo về chi phí mua thuốc cơ bản mà không có phân tích kinh tế chính thức, báo cáo trường hợp đơn lẻ, nghiên cứu không có bệnh nhân có inhibitor, hoặc nghiên cứu về liệu pháp miễn dịch dung nạp.

TỔNG HỢP DỮ LIỆU: Tác động kinh tế của rFVIIa đối với bệnh viện và trung tâm điều trị chủ yếu xảy ra trong thời gian nằm viện để quản lý các đợt chảy máu nghiêm trọng và cho phép thực hiện các phẫu thuật chỉnh hình tự chọn mà sẽ không được thực hiện nếu không có sự có mặt của rFVIIa. Sáu trong bảy phân tích so sánh cho điều trị theo nhu cầu cho thấy rằng tổng chi phí điều trị một đợt chảy máu bằng rFVIIa có thể thấp hơn so với việc sử dụng các tác nhân dựa trên huyết tương do khả năng giải quyết chảy máu nhanh hơn, tỷ lệ hiệu quả ban đầu cao hơn và tránh được các dòng điều trị thứ hai và thứ ba. Các giả định về liều lượng cho các tác nhân khác nhau được so sánh trong các phân tích kinh tế là các biến nhạy cảm nhất.

KẾT LUẬN: Tài liệu hiện có cho thấy rằng rFVIIa là một lựa chọn điều trị có chi phí-hiệu quả và có thể cuối cùng dẫn đến cải thiện kết quả lâm sàng cho bệnh nhân hemophilia và có inhibitor.

Tránh và xác định sai sót cũng như các mối đe dọa khác đến độ tin cậy của các mô hình kinh tế y tế Dịch bởi AI
PharmacoEconomics - Tập 32 - Trang 967-979 - 2014
Các mô hình kinh tế y tế đã trở thành phương tiện chính để thực hiện đánh giá kinh tế và được sử dụng trong nhiều khu vực chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới để cung cấp thông tin cho các quyết định về việc sử dụng công nghệ y tế mới và hiện có. Các mô hình được yêu cầu vì một nguồn chứng cứ đơn lẻ, như thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát, hiếm khi đủ để cung cấp tất cả thông tin liên quan về chi phí dự kiến và hậu quả sức khỏe của tất cả các lựa chọn quyết định cạnh tranh. Trong khi các mô hình được sử dụng để tổng hợp tất cả các chứng cứ liên quan, chúng cũng chứa đựng các giả định, trừu tượng và đơn giản hóa. Bởi bản chất của chúng, tất cả các mô hình đều 'sai'. Do đó, việc giải thích các ước tính về hiệu quả chi phí của các công nghệ y tế đòi hỏi những đánh giá cẩn trọng về mức độ tin cậy có thể được đặt vào các mô hình từ đó chúng được rút ra. Sự hiện diện của một lỗi đơn lẻ hoặc đánh giá không đúng trong một mô hình có thể dẫn đến các quyết định không phù hợp, phân bổ tài nguyên chăm sóc sức khỏe không hiệu quả và cuối cùng là kết quả kém tối ưu cho bệnh nhân. Bài báo này đề xuất một phân loại các mối đe dọa đến độ tin cậy của các mô hình kinh tế y tế. Phân loại này chia các mối đe dọa đến độ tin cậy của mô hình thành ba loại chính: (i) lỗi rõ ràng, (ii) vi phạm, và (iii) các vấn đề liên quan đến đánh giá; và lập bản đồ chúng dựa trên các yếu tố chính của quy trình phát triển mô hình. Ba loại này được định nghĩa theo sự tồn tại của các tiêu chí để đánh giá tính đúng đắn, mức độ tác động mà các tiêu chí này có thể được áp dụng, và cách thức mà các mối đe dọa độ tin cậy này có thể được xử lý. Một loạt các quy trình và kỹ thuật được đề xuất để tránh và xác định các mối đe dọa này nhằm cải thiện độ tin cậy của các mô hình trong tương lai.
#Mô hình kinh tế y tế #đánh giá kinh tế #độ tin cậy #sai sót #phân loại.
Đánh giá chất lượng các đánh giá kinh tế của các chương trình thúc đẩy sức khỏe dành cho trẻ em và thanh thiếu niên - một tổng quan hệ thống dựa trên ví dụ về hoạt động thể chất Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 5 - Trang 1-14 - 2015
Số lượng ngày càng tăng các chương trình phòng ngừa ban đầu nhằm khuyến khích hoạt động thể chất cho trẻ em và thanh thiếu niên đang được thí điểm. Do tài nguyên hạn chế, điều quan trọng là xác định chi phí và lợi ích của những chương trình này. Mục tiêu của tổng quan hệ thống này là đánh giá các bằng chứng hiện có về hiệu quả chi phí của các chương trình khuyến khích hoạt động thể chất cho trẻ em và thanh thiếu niên và đánh giá chất lượng của chúng. Một cuộc tổng quan hệ thống đã được thực hiện, tìm kiếm trong các cơ sở dữ liệu tài liệu đã được thiết lập, xem xét tất cả các nghiên cứu trước tháng 2 năm 2015. Việc theo dõi trích dẫn trong Google Scholar và tìm kiếm thủ công các danh sách tài liệu tham khảo của các nghiên cứu đã được đưa vào đã được sử dụng để củng cố nghiên cứu này. Các yếu tố phương pháp luận cơ bản của các đánh giá kinh tế được bao gồm đã được trích xuất, và chất lượng của các nghiên cứu được bao gồm đã được đánh giá bằng cách sử dụng Bảng hỏi Đánh giá Chất lượng Trẻ em (PQAQ). Tổng cộng có 14 nghiên cứu đã được đưa vào. Xét về sự thực hiện của đánh giá kinh tế, các nghiên cứu cho thấy sự biến đổi lớn. Hầu hết các nghiên cứu sử dụng quan điểm xã hội cho các phân tích của họ và đã giảm giá chi phí và hiệu quả. Các kết quả dao động từ 11,59 USD cho một người trở nên tích cực hơn (can thiệp rẻ nhất) lên đến 669.138 USD cho một năm sống điều chỉnh khuyết tật (DALY) được cứu (can thiệp đắt nhất), với mọi thứ ở giữa. Tổng thể, kết quả của ba nghiên cứu ở dưới mức giá trị 3.061 USD, với một trong số chúng thậm chí còn dưới 200 USD cho các hiệu ứng đạt được. Đối với các chương trình khác, việc đánh giá chi phí - hiệu quả cụ thể theo ngữ cảnh là vấn đề khó khăn vì có các ngưỡng khác nhau cho tính chi phí - hiệu quả ở các quốc gia khác nhau hoặc không có ngưỡng xác định rõ ràng nào. Có nhiều khó khăn phương pháp luận liên quan đến việc đánh giá tính chi phí - hiệu quả của các can thiệp nhằm tăng cường hoạt động thể chất, kết quả là ít sự nhất quán giữa các đánh giá khác nhau. Chất lượng của các đánh giá dao động từ kém đến xuất sắc, trong khi phần lớn chúng đạt chất lượng phương pháp rất tốt. Có thể đạt được khả năng so sánh tốt hơn bằng cách tiêu chuẩn hóa nhiều hơn, đặc biệt là về việc xem xét hệ thống các chi phí thực hiện.
#đánh giá kinh tế #chương trình sức khỏe #trẻ em #thanh thiếu niên #hoạt động thể chất
20. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GÂY TÊ THẦN KINH NGỒI Ở VỊ TRÍ KHOEO KẾT HỢP GÂY TÊ ỐNG CƠ KHÉP TRONG GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT VÙNG DƯỚI GỐI
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD9 - Hội Gây mê Hồi sức - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Phẫu thuật vùng dưới gối có mức độ đau nặng đến rất nặng sau phẫu thuật. Có nhiều phương pháp giảm đau cho nhóm phẫu thuật này, tuy nhiên mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng. Gây tê thần kinh ngồi ở vị trí khoeo kết hợp gây tê ống cơ khép cho thấy hiệu quả giảm đau tốt, giảm sử dụng Opioid sau phẫu thuật, đem lại cảm giác hài lòng cho bệnh nhân, nâng cao chất lượng điều trị sau phẫu thuật. Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật, mức độ tiêu thụ Morphin và mức độ hài lòng của bệnh nhân. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 44 bệnh nhân phẫu thuật cẳng chân, bàn chân tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 8/2023 đến tháng 8/2024. Các bệnh nhân được gây tê thần kinh ngồi ở vị trí khoeo kết hợp gây tê thần kinh hiển trong ống cơ kép với Levobupivacain 0,25%, đánh giá đau theo thang điểm đau nhìn hình đồng dạng (visual analogue scale - VAS), mức độ tiêu thụ Morphin, các tác dụng không mong muốn và sự hài lòng của bệnh nhân trong 24 giờ sau phẫu thuật. Kết quả: Gây tê thần kinh ngồi ở vị trí khoeo kết hợp gây tê ống cơ khép cho hiệu quả giảm đau tốt với VAS vận động và VAS nghỉ trung bình tại các thời điểm nghiên cứu đều nhỏ hơn 2. Lượng Morphin giải cứu trung bình trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật là 4,31 ± 2,287 mg. Tất cả bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều hài lòng hoặc rất hài lòng với hiệu quả giảm đau của kỹ thuật. Kết luận: Gây tê thần kinh ngồi ở vị trí khoeo kết hợp gây tê ống cơ khép là phương pháp hiệu quả để giảm đau sau phẫu thuật, giảm nhu cầu sử dụng Morphin giải cứu và đem lại sự hài lòng cho bệnh nhân sau phẫu thuật dưới gối.
#Gây tê thần kinh ngồi ở vị trí khoeo #phẫu thuật dưới gối #kiểm soát đau sau phẫu thuật
Tổng số: 59   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6